Có một loài hoa đã từng tồn tại, đang tồn tại hay chẳng bao giờ tồn tại. Chưa ai dám chắc được, kể cả già làng. Nhưng câu chuyện về nó thì luôn được kể, hàng ngày, hàng tháng, hàng năm nơi bản làng Lammy. Trong những bữa ăn gia đình, ông kể cho cháu nghe. Trong những buổi họp làng, bên bếp lửa cháy rừng rực, bên ngôi nhà rông uy nghi, ông già làng Kai ngồi vút hàm râu dài trắng muốt, ánh lên dưới đám lửa, rồi cất giọng ồm ồm, khoan khoái kể. Ông kể về một loài hoa đã thành huyền thoại. Loài hoa Lya. Đám thanh niên nam, nữ, già, trẻ ngồi xung quanh, cùng nhâm nhi ché rượu Cần, lắng tai nghe như nuốt từng lời câu chuyện già làng Kai kể, dù họ đã nghe, đã thuộc nằm lòng về nó.
***
"Chuyện kể rằng ngày xưa, rất xưa, xưa đến nỗi Kai này chỉ là hạt cát, có một cô gái ở bản làng Lammy này rất xinh đẹp, xinh như nàng tiên của Giàng vậy. Nàng tên là Lya. Không chỉ xinh đẹp thôi đâu mà nàng còn là một cô gái thông minh, có trái tim nhân hậu, lại có tài hát hay, đàn cũng hay nữa. Như nụ hoa vừa mới nở, tài năng và sắc đẹp của nàng như loài hương ngây ngất, vẫy gọi bao nhiêu bướm ong tìm đến. Nhưng không một kẻ nào trong đám trai làng dám vào nhà ông phú hộ giàu có và đầy quyền lực, cha của nàng, để ngỏ lời. Họ chỉ loanh quanh, tụ họp trên ngon đồi gần đó, đốt lửa, nhảy múa, đàn ca những gia điệu núi rừng du dương, mong nàng nghe thấy và để mắt đến. Trong đám trai trẻ đó có chàng Korai, rất khỏe mạnh, vạm vỡ và cũng giỏi đàn ca. Mỗi lúc chàng cất giọng hát và gảy chiếc đàn Kok thì không gian nghe như có tiếng chim hót hòa lẫn trong tiếng suối chảy thánh thót. Và rồi những âm thanh trong trẻo ấy bay qua núi đồi, len qua các tầng lá rậm của đại ngàn, lọt qua khung cửa nhỏ, đến căn phòng mà Lya đang ngồi dệt vải, làm trái tim bé nhỏ của nàng cứ nhảy múa theo từng nhịp hoan ca.
Và......."
Cứ thế, già Kai kể, đôi lúc ông dừng lại để tu một ngụm rượu Cần, khà một tiếng sảng khoái rồi lại tiếp tục.
"Họ âm thầm hò hẹn, đôi tim non đã hòa quyện làm một, không thể tách rời. Họ say đắm với những nụ hôn đầu đời trong những lần gặp gỡ lén lút, ít ỏi, đôi khi quên đi một thực tại rằng địa vị, gia cấp của hai người không môn đăng hộ đối. Chàng Korai tuy tháo vát, khỏe mạnh nhưng lại rất nghèo. Cả hai đều biết rằng họ sẽ chẳng bao giờ có kết cục viên mãn nhưng họ không thể dừng lại, đôi tim đã thuộc về nhau.
Mọi việc rồi cũng đến tai ông phú hộ. Tay chân của ông, trong một cuộc tìm kiếm nàng, đã bắt gặp họ đang quấn quýt bên nhau trong nụ hôn nồng thắm. Và hậu quả là chàng đã bị gia đình nàng dùng quyền lực đuổi khỏi bản làng. Nghe đâu, chàng bị đày lên tận đỉnh núi để lao động khổ sai như hình phạt đền bù cho tội lỗi của mình. Nàng nhốt mình trong căn phòng trống rỗng, cô đơn, ngày này qua tháng khác. Từ bên ngọn đồi kia đã không còn nghe lời đàn ca như suối thánh thốt của chàng Korai nữa. Đau khổ, tuyệt vọng, phẫn uất và nhớ thương quay quắt, nàng đã lừa cơ hội, trốn khỏi nhà, vào tận rừng sâu, lên tận đỉnh núi mà người ta tin rằng chàng đang bị đày ở đó để kiếm tìm. Vừa đi nàng vừa gọi:
- Korai! Korai!
Thì trong rừng sâu lại có tiếng đáp lại:
- Korai! Korai!
Cứ thế nàng đi theo tiếng nói vang vọng của chàng đến tận đỉnh núi Takpor. Ngày qua, đêm xuống bao nhiêu lần nàng cũng không biết nữa, thực phẩm nàng mang theo đã cạn, mệt mỏi, đói khát, nàng thả mình trên phiến đá cạnh một cây cổ thụ. Cái bụng nàng đã to lên theo năm tháng, kể từ khi chàng ra đi. Nếu không phải là con phú hộ, chắc Lya đã bị hình phạt đòn roi để đuổi con ma hoang trong bụng ra, không biết sống chết thế nào rồi. Giờ nó lại đạp làm Lya đau thắt. Nàng mỉm cười nhìn cái bụng mình rồi vút ve, âu yếm nói:
- Con sắp tìm được cha rồi đấy. Con có nghe tiếng cha gọi mẹ con mình không.
Nói rồi nàng cất tiếng gọi.
- Korai! Korai!
Và lập tức có tiếng đáp lại rất gần:
- Korai! Korai!
- Anh ở đâu? Em đến bên anh rồi đây. Korai ơi.
Bỗng đâu một chú chim lạ, với đôi chân và đôi cánh rất khỏe, bộ ngực vồng lên mạnh mẽ bay đến đậu trên cây cổ thụ gần Lya và hót:
- Korai! Korai! Giọng rất giống chàng Korai.
Chú chim nhìn nàng say đắm, đôi mắt ấy là của Korai, không thể nào nhầm lẫn được. Nàng bỗng khóc gào lên uất nghẹn.
Mặt trời dần khuất sau đỉnh núi, cái rét năm ấy vốn cắt da, cắt thịt, về đêm trên đỉnh Takpor này càng lạnh không thể chịu nổi. Đói rét, kiệt sức và tuyệt vọng, nàng gục xuống bên tảng đá đầy rong rêu, cỏ dại. Hôm sau, những người săn thú rừng mạo hiểm, trên đường trở về, dừng nghỉ bên tảng đá quen thuộc, bỗng phát hiện loài cây lạ nở một bông hoa rực rỡ duy nhất trên nền tuyết trắng. Xung quanh, cây cối co cụm vì giá rét, không một loài hoa nào mọc nổi càng làm sắc hoa lạ lẫm kia bừng sáng giữa trời đông, cánh hoa trắng muốt, nhụy hoa đỏ thắm như làn môi con gái, mùi hương tỏa ra thơm ngát. Phút chốc những người thợ săn không còn cảm thấy cái lạnh nữa, bao đói khát, bệnh tật cũng tan biến. Họ thấy mình khỏe mạnh hơn bao giờ hết và tiếp tục lên đường trở về bản. Có người định hái hoa mang theo nhưng người lớn tuổi nhất trong đoàn ngăn lại. Ông nói đó có lẽ là hoa của Giàng, không nên đụng đến. Khi chuẩn bị lên đường, những thợ săn thấy một chú chim lạ to lớn, sà xuống bên đóa hoa, tựa đầu vào những cánh hoa buồn bã. Một người dương nỏ định bắn thì bỗng chú chim kêu lên mấy tiếng:
- Korai! Korai!
Họ giật mình lùi lại. Câu chuyện tình đẹp nhưng buồn của chàng Korai và nàng Lya, không những được dân làng Lammy truyền kể, tiếc nuối mà nó còn lan sang các bản làng khác. Vì vậy, khi nghe chú chim kêu lên thứ âm thanh quen thuộc ấy. Những người thợ săn tin rằng chú chim lạ kia là chàng Korai và đóa hoa thần tiên bên cạnh chính là nàng Lya. Và họ đặt tên loài hoa kỳ lạ là hoa Lya.
Khi về bản, câu chuyện của họ truyền đi rất nhanh, nhiều người háo hức muốn tìm đến để tận mắt chứng kiến nhưng vì đường xa, nguy hiểm cộng với cái rét kinh người nên không nhiều người đến được. Có vài chàng trai làng Lammy rất khỏe mạnh, bạn của Korei đã quyết tìm đến tận nơi để gặp bạn mình. Và quả thật họ đã chứng kiến y hệt những gì được kể. Điều đó càng làm dân làng háo hức. Khi tiết trời nắng ấm, từng đoàn người lũ lượt tìm đến nơi tảng đá có loài hoa huyền bí nhưng họ không còn thấy gì nữa hết. Họ chỉ nghe những tiếng chim lạ như ai đó gọi tên Korai một cách buồn bã vọng lại từ xa. Có người nói rằng, loài hoa này chỉ nở trong mùa giá rét và ai may mắn ngửi được mùi hương hoa thì sẽ hết mọi bệnh tật và sống rất lâu. Vậy là mùa giá rét năm sau, những trai tráng làng Lammy lại lên đường nhưng không thấy, những năm sau nữa vẫn không thấy. Họ nghi ngờ, loài hoa này chỉ mọc và nở đúng một lần trên đời rồi thôi. Nhưng có một số người vẫn kiên trì với niềm tin sẽ lại tìm thấy nó và quyết hái mang về để chữa bệnh cho dân làng.
Và rồi một mùa rét căm, rét đậm đến nỗi tuyết rơi dày mặt đất, không loài hoa nào nở được như mùa đông năm Lya ra đi, họ đã tìm thấy loài hoa huyền thoại đó và hái mang về. Thật kì lạ, những ai đang đau yếu, chỉ cần ngửi thấy hương hoa là lập tức khỏi bệnh. Loài hoa ban phát ân huệ một cách bao dung và rộng lượng như chính tấm lòng nhân ái và chung thủy của nàng Lya. Nó ở đó với bản làng suốt mùa đông, giúp biết bao người khỏi bệnh, chỉ tàn lụi và biến mất khi cái rét không còn."
***
2.
- Vậy là mùa đông này anh có thể gặp được nó.
- Anh tìm chắc không bao giờ gặp đâu. Hoài công thôi. Đó chỉ là huyền thoại. Lya chầm chậm nói.
- Sao vậy? Mùa đông này đã chẳng rét đậm chăng?
- Lâu lắm rồi, không có mùa đông nào lạnh như mùa đông đó cả.
- Sao em biết?
- Hì, em nghĩ thế. Lya bẽn lẽn. Vì chưa ai tìm thấy loài hoa đó lần nữa mà.
- Anh nghĩ là anh đã tìm được. - Đâu? Cho em xem.
- Đang nở cạnh anh nè, trắng muốt và làn môi đỏ thắm.
- Anh! Chọc ghẹo không à.
Dù cố làm cho cô bé vui nhưng mắt nàng luôn đượm một màu xám xịt. Tôi chuyển đề tài.
- Sao em lại có tên là Lya?
- Bố em đặt cho, mong em sau này xinh đẹp và nhân ái như hoa Lya.
- Vậy là ông đã toại nguyện rồi?
Lya không đáp, chỉ cuối mặt xuống, hai hàng lệ ứa ra chậm rãi. Tôi bối rối, không biết mình đã nói gì sai, hay đã làm gì phật ý nàng.
- Em sao vậy? Anh làm em buồn à?
- Không ạ!
- Có gì buồn, tâm sự cùng anh, anh đang sẵn sàng lắng nghe.
- Không ạ. Kể về anh đi. À mà anh tên gì nhỉ? Lúc nãy, anh giới thiệu với cha em rồi mà em không để ý.
- Korai.
- Anh thích đùa quá, thôi không thích nói chuyện với anh nữa.
Lya giận dỗi bỏ vào bếp. Tôi ngớ người ra, chợt hiểu rằng người bản làng không thích đùa dai.
- Lya, cơm nước xong chưa?
Giọng ông chủ nhà, cha Lya sang sảng vọng vào từ đầu ngõ.
- Ái chà! Anh nhà báo. Vào trong nhà ngồi uống trà cho ấm chứ sao ra đây vậy, rét lắm.
- Dạ. Cháu ra ngắm đỉnh Takpor tí ạ. Đẹp quá bác ha?
- Ái dà! Anh ngóng loài hoa đó chứ gì? Nó không nở đâu. Trời phải lạnh có tuyết rơi kia. Thời bây giờ, ở đây làm gì có tuyết nữa. Tôi sống từng này tuổi ở đây rồi mà còn chỉ nghe kể thôi chứ chưa thấy nữa là...
- Dạ, cháu cũng nghĩ chỉ là huyền thoại thôi ạ.
- Ừ. Vào nhà đi anh.
Ông bày ché rượu cần vừa bê về từ đâu đó, có lẽ là nhà kho và gọi Lya dọn mâm. Tôi thấy trong mân bốc khói nghi ngút, ngoài cơm lam, có một món giống như da bò khô ngâm mềm rồi kho lên, một món nữa tôi biết chắc là mình sẽ nôn ngược khi "thưởng thức", đó là món chuột treo dàn bếp. Lúc nãy, Lya dặn dò là nếu không muốn phật lòng ông chủ nhà thì phải dùng món đó thật "nhiệt tình". Vì chỉ có khách quý mới được mời thôi. Lya là một cô gái thông minh, có thể đoán được ý của người khác. Tôi không thể hiểu tại sao cô lại không được đi học.
- Mời anh nhà báo nhé.
- Dạ, cháu mời bác.
- Lâu lắm mới có cán bộ dưới xuôi lên thăm. Tôi vui lắm. Hết ché rượu cần này đi thôi.
Mùi rượu cần thấm vào, ấm nóng, thơm phứt, xua tan đi cái lạnh đang băng giá. Rượu thì rất ngon nhưng mồi "quý" thì tôi phải cố hết sức để tỏ ra bình thản khi ăn. Thậm chí còn khen "ngon" để ông được vui. Trò chuyện hồi lâu, khi cả hai đã ngà say, tôi mở đề hỏi về Lya.
- Bác à. Cháu thấy cô bé Lya nhà bác thông minh, lanh lợi, sao không cho em đi học ạ?
- Ái dà! Ông thở dài. Anh đừng nhắc cái con bé hư đốn đó làm gì. Cả nhà tôi phải mang nhục vì nó đó. Đến trâu cày cũng phải đền cho làng nữa.
- Cháu không hiểu ạ.
- Đáng lẽ nó bị làng đuổi đi từ lâu rồi nhưng tôi phải đền trâu mới xin được ở lại đó. Bản làng cấm nó đi nữa, không cho xuống phố học nữa đâu.
Ông thật thà kể lại không giấu một chi tiết nào. Người vùng cao, khi họ đã quý mến và tin tưởng ai đó, họ sống rất chân thành và thật thà chứ không trắc trở, nghi kỵ, lọc lừa như người miền xuôi.
***
"Lya học hết lớp chín ở trường phổ thông dân tộc nội trú huyện với thành tích xuất sắc và được tuyển vào trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh để tiếp tục học cấp ba. Tuổi mới lớn, em đẹp như loài hoa Lya huyền thoại. Làn da trắng, đôi môi đỏ thắm. Bên trong làn áo, đôi ngực thiếu nữ đã phập phồng chớm nở, thu hút bao ánh nhìn là lạ. Là hoa của núi rừng, quen với cảnh và người chân chất của núi rừng, tất nhiên khi xuống phố, ngoài vẻ lung linh chết người, với bản chất chân thành, thật thà, em không biết những cạm bẫy của xã hội hiện đại đang chờ mình phía trước.
Tuổi mười sáu, tuổi chớm yêu, Lya gặp Tiến, một cậu ấm nhà giàu, lười học, chỉ dùng tiền cha mẹ làm quan to tiêu xài là giỏi. Quán bar, vũ trường nào hắn cũng biết, loại gái nào hắn cũng đã thử qua. Chỉ một loài hoa rừng là chưa có dịp hái, hoặc chưa đủ tầm để lọt vào mắt hắn. Nhưng khi gặp Lya, trái tim kẻ sát gái máu lạnh bỗng dưng đổ ngay lập tức. Hắn thấy nàng trong một khu chợ, khi Lya cùng bạn đi dạo chơi trong ngày nghỉ được ra ngoài hiếm hoi của trường nội trú. Hắn tiến tới tiếp cận, làm quen trước sự e thẹn, dè dặt của nàng. Để theo đuổi đối tượng, hắn nằng nặc đòi cha mẹ phải xin chuyển hắn vào trường nội trú, nếu không hắn sẽ nghỉ học.
Thế là ngay tuần sau, hắn bỗng chốc trở thành học sinh trường nội trú. Với kinh nghiệm phong trần dày dạn của mình, dù mới chỉ mười bảy tuổi, cùng cái uy danh của cha mẹ, Tiến dễ dàng cưa đổ đóa hoa rừng xinh đẹp nhưng ngây thơ, cả tin mà không vấp phải sự kháng cự nào đáng kể. Và để có thể chiếm được Lya, Tiến đã nhờ phụ huynh xin cho hắn và nàng được nghỉ một tuần. Hắn đưa nàng đi đến một khu resort ở thành phố lớn để tham quan, nghỉ dưỡng. Mê mẫn với cảnh đẹp xa hoa và sự giàu có, chịu chơi của Tiến, Lya quên mất cách từ chối ... .
Sau tuần "trăng mật", hắn biến mất tăm khỏi trường nội trú. Chắc là lại chuyển trường khác để tiếp tục "săn mồi"? Lya buồn và nhớ hắn đến suy sụp. Trái tim non lần đầu gặp bão, cơn bão quá mạnh, cuốn đi của Lya những hy vọng và cả niềm tin vào cuộc sống. Nàng càng sụp đổ hoàn toàn khi biết rằng mình mang thai.
Không thể tiếp tục học, Lya đành phải ngậm ngùi quay về bản làng, mong được che chở. Nàng còn quá trẻ con, khờ khạo nên không biết điều khủng khiếp gì đang chờ mình phía trước. Về đến bản, trong vòng tay ấm áp của gia đình, Lya nghĩ rằng mình có thể yên tâm sinh nở. Khi người cha thấy con lâu ngày không trở lại trường, ông đã hỏi lý do vì sao. Nàng thật thà kể lại mọi chuyện. Cái đầu tiên nàng nhận được, không phải sự an ủi mà là cái tát trời giáng của cha mình. Nàng ngã quỵ xuống đất vì lực đẩy, vì đau, vì tuyệt vọng. Ông cũng quỵ ngã vì đòn đau quá bất ngờ mà đứa con gái thông minh, xinh đẹp, niềm hy vọng lớn nhât của mình vừa giáng xuống đầu. Ông đổ bệnh, nằm liệt giường suốt mấy tháng, của cải tích cóp bao lâu đều đội nón ra đi để thuốc thang và mời thầy cúng. Cuối cùng, ông may mắn khỏe lại. Nhưng cái bụng chửa hoang của con gái ngày càng lớn, không thể giấu được dân làng. Lya và cả gia đình bị già làng triệu lên nhà Rông để hội đồng làng xét hỏi. Làng đã không còn hủ tục đuổi con ma hoang trong bụng Lya nữa nhưng họ vẫn phải chịu hình phạt khắc khe nhất. Đó là, gia đình ông phải đền con trâu lớn để dân làng cúng tế trừ tà, và Lya phải đi khỏi làng để tránh gây họa vì đã xúc phạm đến thần linh. Ông đã phải khóc lạy, van xin già làng thương tình vì ông chỉ còn một đứa con duy nhất là nàng, hai anh nàng đã mất trong một tai nạn đổ cây khi đang khai thác lâm sản trên đỉnh Takpor, nhưng già làng vẫn không nghe. May mắn cho Lya, khi hay tin có vụ xử án của bản làng, bộ đội Can, người cán bộ, "giáo viên", "y tá".. được bản làng kính mến, đã có mặt đúng lúc để khuyên giải, nói lẽ phải cho già làng và bà con hiểu, họ mới chịu tha cho hình phạt đuổi khỏi làng. Nhưng bù lại, gia đình ông phải đền một con trâu nữa để tạ tội với thần linh vì đã làm trái ý đấng siêu nhiên. Và Lya từ nay về sau không được rời khỏi bản để tránh mang tai họa về lần nữa. Vậy là tài sản, cơ nghiệp nhà ông bỗng chốc tiêu tan ngay trước mắt. Mẹ Lya cũng vì thế mà ốm nặng, qua đời. Quá suy sụp, ông bắt đầu uống nhiều và lâu dần trở nên nghiện rượu. Khi say xỉn, nhớ lại chuyện cũ, ông bắt đầu chửi bới nàng không tiếc lời, có khi còn đánh đập. Mang thai mệt nhọc, cơ thể non yếu, lại hay bị cha la rầy, uất ức, sầu muộn chất chứa, Lya đổ bệnh nặng. Rất may được cán bộ Can đưa về bệnh viện tuyến tỉnh mới cứu được. Nhưng nỗi buồn tang tóc khôn tả lại đến khi đứa con của nàng vì không chịu nổi áp lực từ những cú sốc nặng và quá trình điều trị nên đã bị lưu thai. Các cán bộ y tế đành phải phẫu thuật để cứu lấy nàng.
Sự việc xảy ra khoảng hơn một năm trước. Giờ Lya đã 18 tuổi."
***
3.
- Hôm nay, vui,... vui... . Uống đi. Cho quên hết. Ông cất giọng khàn đặc.
- Thôi, cháu mệt rồi để mai bác ạ. Biết ông đã say, tôi từ chối khéo.
- Anh nhà báo, anh không nhiệt tình với già rồi. Anh không tốt.
- Anh cố gắng đi, không thì không tốt đâu. Lya từ trong đi ra, thì thầm vào tai tôi.
- Cái con hư đốn kia, mày vác mặt lên đây làm gì, xuống dưới bếp ngay. Đồ khốn nạn, quân ăn hại.
Ông bất ngờ chửi xa xả vào mặt Lya là nàng xấu hổ không biết chui vào đâu được. Ôm mặt khóc rưng rức, nàng chạy xuống dưới nhà.
Bữa rượu tiếp tục cho đến chiều chạng vạng. Khi đã say nhừ, ông cất giọng gọi:
- Lya, Lya, lên dọn dẹp.
Không nghe tiếng trả lời.
- Lya, Lya.
Lại im lặng.
- Khò! Khò.
Ông đã chìm vào giấc ngủ thật nhanh. Tôi dọn dẹp mọi thứ vào mâm và mang xuống nhà dưới gọi Lya nhưng vẫn không nghe hồi đáp. Ngoài trời đêm đã xuống và thật không ngờ! Tuyết rơi!?
...
*- Lya còn đi học không?
- Dạ, không ạ.
- Vậy em dự định làm gì sau này?
- Làm gì hả anh, em thế này...
- Lya xinh thế này về thành phố xin việc dễ lắm.
- Thành phố hả? Lya nở một nụ cười khó hiểu rồi nhìn về phía xa xôi.
-Ừ, Thành phố?
- Em không hợp với thành phố.
- Sao lại thế? Vậy về làm người mẫu ảnh cho anh nè.
- Thôi cho em xin.
- Chứ em đợi chờ gì ở chốn này?
- Em đợi mùa đông nào có tuyết và rất rét.
- Làm gì?
- Hoa Lya.
- Lãng mạn quá ha.
- Em muốn đền bù lại hết những tội lỗi mà em đã gây ra cho bản làng và ba mẹ. Em đã làm cho thần mưa lũ giận dữ, đến cướp đi nhiều mạng người, gia súc và thóc lúa.
- ....*
Bất chợt, những lời nói chuyện bâng quơ giữ tôi và Lya lúc ban trưa hiện về. Giờ tôi mới hiểu hết ý em muốn gì. Nhưng tôi đã quá say, trời lại đang tuyết rơi, tôi cũng chẳng biết đường đi trong đêm tối. Làm sao đây? Đi về phía nhà trên, bóng tối đã sập xuống một màu đen tuyệt đối. Tôi rút chiếc điện thoại soi sáng và lần đến chỗ cha Lya, ráng sức lay ông dậy nhưng không được. Cơn say rượu Cần nó đến từ từ nhưng mãnh liệt, tôi bắt đầu gục xuống...
...
Trời lạnh thấu xương, tuyết rơi dày đặt. Tôi một mình dò dẫm trong đêm tối với ánh đuối trên tay, cùng chiếc máy hình treo lủng lẳng trên ngực. Tìm Lya? Động lực nào để tôi tìm Lya? Tình yêu? Tình người? Không phải, tôi đi tìm hoa Lya thì đúng hơn. Tôi là người may mắn khi đến đây đúng thời điểm tuyết rơi. Ai cũng một lần mong được thấy loài hoa huyền thoại ấy. Mỗi người một mục đích khác nhau, như cầu mong hết bệnh, cầu sống lâu... Riêng tôi, tôi chỉ cần ghi những tấm hình, thu trọn nét đẹp tiên sa của loài hoa hàng ngàn năm có một này để nó mãi tỏa sắc hương cho đời chứ không thể lụi tàn rồi lại trở thành huyền thoại. Thế là chết cũng mãn nguyện. Tôi là nhà báo, nhưng lại say mê sắc đẹp của thiên nhiên, của con người và muốn đóng khung những loài hoa quý để thỏa mãn đam mê của mình. Ban chiều, tôi đã chụp lén Lya mấy tấm hình tuyệt đẹp. Nếu tôi chụp được hoa Lya nữa thì tôi đã có thể so sánh đóa hoa nào đẹp hơn rồi.
- Lya! Tôi bắt đầu gọi lớn, khi thấy mình đi sâu vào rừng rất lâu.
- Korai!
- Lya! Tôi tiếp tục gọi.
- Korai!
Lại là tiếng chim Korai đáp lời tôi. Cứ thế tôi gọi và đi theo tiếng đáp của loài chim lạ. Đi mãi tới mờ sáng, trời càng lạnh cắt thịt, thấu xương. Đã tới đỉnh Takpor, thấy cây cổ thụ và tảng đá gần nhau, tôi biết mình đã tìm đúng chỗ. Xa xa, trong ánh bình minh mờ nhạt của mùa đông lạnh giá. Một vầng hào quang sáng trắng tỏa ra ngay trên chính tảng đá huyền thoại.
- Hoa Lya, tôi đã thấy nó rồi.
Tôi reo lên nhưng phát hiện, chỉ có mỗi tôi ở đây. Phát rồ, tôi vứt bó đuốc, cầm chắc ống kính và lao như tên về phía loài hoa huyền thoại để rồi... sững sờ với vẻ đẹp không có ngôn ngữ, màu sắc hay hình ảnh nào ở trần thế có thể tả được. Mùi hương thơm ngất ngây rất giống mùi thân thể của nàng Lya ban chiều tỏa ra khi ngồi gần tôi. Tôi bỗng dưng không còn lạnh nữa, những cơn đau, nhức mỏi, và cả men rượu cũng không còn. Đưa máy lên, tôi bấm liên tục đủ mọi góc độ. Quá thỏa mãn, tôi định ngồi xuống nghỉ ngơi, ngắm hoa thêm tí nữa rồi đi tìm nàng Lya thì bỗng nghe tiếng nàng:
- Anh nhà báo, xin lỗi, lúc chiều anh nói anh là Korai mà em không tin. Giờ em mới biết điều anh nói là sự thật.
- Em đang ở đâu?
- Em là đóa Lya này. Giờ em đã thỏa ước nguyện rồi. Anh hãy dùng đôi cánh của mình mang em về bản làng nhé. Em sẽ ban ân huệ cho bản làng để trả món nợ xưa.
- Anh làm sao có cánh được?
- Hi. Anh nhìn lại mình đi.
Tôi bất chợt rùng rợn đánh rơi chiếc máy ảnh và mãi không cầm lên được. Hai tay tôi đã biến thành đôi cánh tự lúc nào.
- Korai! Korai!
Tiếng nói của tôi bỗng trở thành tiếng hót. Tôi bay lên theo bản năng và theo lời Lya, tôi quắp lấy bông hoa, bay về bản làng.
4. Khi mọi người đến được nhà Lya thì đã muộn, hai người đàn ông, một già là cha của nàng và một trẻ là nhà báo, nhà nhiếp ảnh trẻ Đăng Phước (theo thẻ hành nghề mang theo) đã tử vong do uống quá say, ngủ quên dưới trời tuyết lạnh, không giữ ấm, cơ thể đã bị tụt thân nhiệt. Nàng Lya thì dân làng không biết đi đâu, mãi mãi không thấy về. Có một điều kì lạ là trong mùa đông năm đó, cả làng đều khỏe mạnh, không ai đau ốm gì cả, mưa lũ cũng không hung dữ như năm trước. Thẻ nhớ trong chiếc máy ảnh của anh Đăng Phước được mang ra tiệm rửa ảnh. Ai cũng ngạc nhiên khi thấy những bức hình chụp một loài hoa đẹp tuyệt trần mà chưa ai gặp trong đời mình bao giờ. Và tuyệt nhiên, không có gì khác nữa, ngoài những bức hình về loài hoa này.
Bùi Hữu Phúc