Cô Thắm lấy chồng vào cái tuổi bốn mươi hai. Thiệp cưới đến tay trưởng phòng giáo dục, ông nghĩ chắc đây cũng là một giáo viên trong hàng trăm người dưới quyền quản lý của mình. Nhờ ai đó nhắc, ông mới nhớ ra cô Thắm chính là nhỏ bạn ngồi cùng bàn cùng lớp hồi trung học. Ai mà ngờ tới giờ mới lấy chồng.
Cô Thắm dạy mầm non. Sáng sớm cô đã có mặt ở trường chuẩn bị đón trẻ, chiều muộn cô mới về, có khi mỏi mòn ngồi cửa lớp chỉ vì có một đứa trẻ bị quên đón. Chuyện trẻ bị bỏ quên xảy ra cũng thường, sau này không đợi, chạng vạng cô đưa đứa nhỏ về nhà mình chờ người thân chúng sực nhớ ra. Hồi trẻ chắc là cô cũng đã từng yêu, từng hẹn hò trong những buổi tối không bận làm đồ dùng chơi và học cho bé, không ở lại trường tập văn nghệ, không chép giáo án (đừng nghĩ mầm non thì không có giáo án, mà lầm). Chắc là chuyện tình duyên đã chẳng đến đâu, bởi trong những buổi hẹn hò ấy cô mệt đừ sau một ngày quần quật với đám trẻ, hay trắc trở ở mẹ anh bồ khi đọc báo thấy bảo mẫu toàn những kẻ ngược đãi trẻ con. Rốt cuộc thì cô đã tìm được người đàn ông của đời mình, hiểu và yêu những gì cô có, kể cả công việc với đám nhỏ. Vài cô giáo cùng trường cũng quá tuổi ba mươi, lấy duyên muộn của cô Thắm ra làm hy vọng.
Đám cưới cô có hai đứa học trò được mẹ đưa tới chung vui. Cô dâu chú rễ dắt tụi nó ra chụp hình, tay mỗi đứa cầm cái đùi gà chiên nước mắm, nhai ngỏn ngoẻn. Tấm ảnh ấy sẽ được đặt trong tủ kiếng, để đôi khi cô Thắm nhớ được mặt mũi ít nhất hai đứa trong hàng ngàn đứa trẻ mà cô đã bảo bọc, dạy dỗ trong gần hai chục năm dạy học.
Không có đứa học trò nào nhớ cô hết. Cái ký ức non nớt của độ tuổi đó không thể nhớ người dưng nào thành rãnh, thành vết hằn. Giáo viên mầm non như cô không tồn tại trong những buổi tụ tập gọi là họp lớp. Cũng chẳng trò nào nhắc tên cô Thắm trong những bài tập làm văn kiểu như tả thầy cô giáo mà em yêu. Mặc dù, cô đã từng giặt quần cho trò khi chúng ị bậy, tè dầm, đút cơm chúng ăn từng muỗng. Cả khi nghỉ trưa, cô cũng chờ chúng ngủ say thì mình mới chợp mắt. Ngày Tết nhà giáo, chẳng có đứa học trò cũ nào tìm về tặng bông. Những vị khách lũ lượt qua đò và không bao giờ ngoái lại.
Ngày tết nhà giáo, thầy dạy cấp ba cũng là bạn học của cô Thắm, phải ôm hoa bỏ vô thùng rác sau khi lấy hết lõi(*)của chúng ra. Nhà thầy đối diện ở bên kia đường, luôn tấp nập ngay cả những ngày không lễ tết. Một ngày thầy dạy thêm bốn ca, hỏi sao chẳng nhộn nhịp. Ngoảnh đi ngoảnh lại, thầy bên ấy cơi lên mấy tầng, nhà cô Thắm ngày càng như lụn xuống. Thỉnh thoảng cô cũng được phụ huynh dúi cho chút tiền, gọi là “ưu tiên chăm chút cho cháu nó”, đổi lại, cô phải cảm thấy tội lỗi, khổ sở và bị trừng phạt khi con họ chạy giỡn va vào nhau xước trán, u đầu. Cô Thắm không than thở, bởi đã từng làm điều đó một lần, và bạn bè nhiếc “ai biểu đâm đầu đi nuôi dạy trẻ, thiếu gì nghề khác”. Giọng bạn kiểu như hãy tự nhận trách nhiệm cho chọn lựa của mình, hoặc hãy oán ông Nguyễn Văn Tý viết bài nhạc Cô đi nuôi dạy trẻ du dương dụ dỗ người nhẹ dạ cả tin. Quả là hồi ấy cô Thắm có nhiều con đường để đi, không như những cô giáo trẻ bây giờ “thi gì cũng rớt, tụi em mới thi vô sư phạm”.
Ở những trường mầm non quốc tế, trường tư hạng sang, cô giáo chỉ kể chuyện cháu nghe, dạy múa hát cho chừng hai chục đứa nhỏ mỗi lớp. Nhưng trong ký ức đi nuôi dạy trẻ mấy chục năm của cô Thắm, ở mấy trường công mà cô từng làm việc, lớp luôn trên năm mươi trẻ, hai cô giáo sẽ kiêm luôn quét lớp, lau nước tiểu tè dầm, thay quần áo cho bọn nhỏ, cho những đứa bệnh uống thuốc, dọn những đống nôn mửa của trẻ con. Cuối chiều trong giờ trả trẻ, cô còn phải ngai ngái một đỗi đường, không biết có rắc rối nào nảy sinh từ những lời con thỏ thẻ với mẹ, “cô giáo đánh”. Người ta luôn nghĩ những đứa trẻ luôn nói sự thật, chỉ mỗi bà mẹ trong Thiếu phụ Nam Xương là phải ngậm oan trầm mình tự vẫn vì lời thật của trẻ con.
Ai đó nói ở trường mẫu giáo công, nếu cô dạy trẻ nào tuyệt đối không từng quát mắng, hoặc tét đít con nít, thì cô ấy chính là hóa thân vị thần tiên áo trắng trong chùa Phật. Đó là nơi luyện phẩm hạnh, kể cả khi mệt lử bởi trẻ con và những bất tiện trong giảng dạy, cô giáo cũng phải cười tươi nói ngọt. “Cũng từng muốn bỏ, mà thấy không đành” cô Thắm nói vậy khi có người hỏi ngay trong đám cưới, liệu có theo chồng bỏ cuộc chăn (con nít).
Đám cưới của cô Thắm chỉ bảy bàn, cô dâu tóc có vài sợi bạc. Không biết cô có kịp sinh đứa trẻ của riêng mình, khi mà năm nay cô phải thi giáo viên giỏi toàn thành. Nhà trường nói chỉ trông cậy mỗi cô đem thành tích vẻ vang về thôi, kỳ thi văn nghệ vừa qua đã trắng tay rồi.
(*) Phong bì , chú thích này dành cho những ai không ở trên đất Việt (nên cứ nghĩ phong bì là một lá thơ viết tay).